Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2009

Hà Nội ca - bài ca da diết ! - 999 năm HN

HƯỚNG VỀ HÀ NỘI


Sáng tác: Hoàng Dương

''Hà Nội ơi, hướng về thành phố xa xôi


Ánh đèn giăng mắc muôn nơi áo màu tung gió chơi vơi
Hà Nội ơi, phố phường dài ánh trăng mơ
Liễu mềm nhủ gió gây thơ thấu chăng lòng khách bơ vơ
Hà Nội ơi, những ngày vui đă ra đi,
Biết người có nhớ nhung chi,
Hết rồi giây phút phân ly
Hà Nội ơi, dáng huyền tha thướt đê mê,
Tóc thề thả gió lê thê
Biết đâu ngày ấy anh về
Một ngày mùa chinh chiến ấy,
Chim đã xa bầy mịt mờ bên trời bay
Một ngày tả tơi hoa lá,
ngóng trông về xa ... luyến thương hình bóng qua
Hà Nội ơi, nước hồ là ánh gương soi,
Nắng hè tô thắm lên môi, thanh bình tiếng guốc reo vui
Hà Nội ơi, kiếp đời muôn hướng buông trôi
Nhớ về người những đêm rơi
Nhắn theo ngàn cánh chim trời
Hà Nội ơi, những ngày thơ ấu trôi qua,
mái trường phượng vĩ dâng hoa
dáng chiều ủ bóng tiên nga.
Hà Nội ơi, mắt huyền ngây ngất đê mê,
tóc thề thả gió lê thê, hãy tin ngày ấy anh về
Một ngày tàn hương chinh chiến,
lửa khói lăn chìm, tìm về nơi bờ bến
Một ngày hồng tươi hoa lá
Hát câu tình ca nói lên lời thiết tha
Hà Nội ơi, biết người còn có trông mong,
Hướng về ai nữa hay không những ngày xa vắng bên sông.
Hà Nội ơi, những chiều sương gió dâng khơi
Có người lặng ngắm mây trôi,
Biết bao là nhớ tơi bời ...''
( Sáng tác 1970 ? )

10 công trình năm 2006 - kiệt tác

Kiệt tác kiến trúc thế giới 2006


Không còn đặt vẻ hoành tráng hay tinh xảo lên làm tiêu chí hàng đầu, các công trình được đánh giá là kiệt tác hiện đại đều đề cao tính thân thiện với môi trường, tiết kiệm năng lượng, sử dụng công nghệ thông minh và các vật liệu hiện đại.
Dưới đây là 10 công trình được tạp chí Business Week đánh giá là kiệt tác kiến trúc của năm 2006.

1.Vườn thực vật Hoàng gia Anh
Được hoàn thành tháng 3/2006, Davies Alpine House là sự kết hợp của công nghệ thông minh, ví dụ các ô thoáng sẽ tự động đóng lại khi trời mưa, với phong cách trang trí hoàn toàn đơn giản. Kiến trúc của công trình cũng nhằm phục vụ tối đa công năng của nó. Ví dụ như cấu trúc toàn kính và thép giúp khí nóng bay lên theo các ô thoáng trên mái, trong khi khí lạnh sẽ vào trong tòa nhà theo các ô thoáng ở phía dưới.

2. nhà Hearst, New York, Mỹ
Trụ sở mới cao 46 tầng của tập đoàn Hearst là một kiệt tác về kiến trúc xanh. Cấu trúc hình mắt lưới của nó giúp tiết kiệm được 20% lượng thép phải dùng so với khung nhà bình thường. Tòa nhà có bộ phận cảm ứng tự động điều chỉnh hệ thống chiếu sáng hoặc tắt toàn bộ đèn khi ánh sáng ngoài trời đủ dùng. Công trình không sử dụng điều hòa mà hệ thống HVAC tiên tiến sẽ sử dụng không khí tự nhiên để hạ nhiệt và làm thoáng khí ở bên trong. Nhờ vậy, năng lượng và carbon dioxide thải ra sẽ giảm 22% so với các tòa nhà cùng quy mô tại New York.Apple Store, New York, Mỹ
Hãng máy tính Apple mới khai trương trên đại lộ số 5, New York một cửa hàng hình khối rubic với chiều cao gần 10 m. Đây thực sự là một thiên đường với các loại máy tính của hãng và toàn bộ cầu thang tại đây đều được thiết kế bằng kính trong suốt.Glenn House, California, Mỹ
Ngôi nhà tiết kiệm năng lượng này là công trình đầu tiên tại Mỹ được xếp hạng "platinum", thứ bậc cao nhất theo hệ thống xếp hạng LEED danh giá của Hội đồng xây dựng Mỹ.Tòa nhà Quốc hội xứ Wales, Anh
Tòa nhà còn có tên là Senedd này có nhiều điểm ưu việt như sử dụng hoàn toàn vật liệu sẵn có tại Wales, hệ thống thông gió tự nhiên. Trong khi các công trình của chính phủ thường được thiết kế và xây dựng theo kiểu "kín cổng cao tường", toàn bộ bề mặt của Senedd đều được lắp kính.
3Toànhà liên bang, San Francisco, Mỹ
Tòa nhà 18 tầng này được coi là một điển hình về kiến trúc thân thiện với môi trường. Nó là tòa tháp đầu tiên ở Mỹ không sử dụng điều hòa không khí trên 70% diện tích. Trên nóc tòa nhà là vườn cây và khu làm việc được thiết kể mở nhằm tạo sự liên kết giữa các nhân viên cũng như tạo ra môi trường văn phòng thân thiện.Big Dig House, Massachussets, Mỹ
Thoạt nhìn, Big Dig House không có gì nổi bật, nhưng điểm đặc biệt là nó được xây dựng từ thép và bê tông còn thừa của các đại công trình trong thành phố.Sân vận động Wembley, London, Anh
Với 90.000 chỗ ngồi, Wembley trở thành sân vận động lớn nhất thế giới. Hai cột đỡ của sân sân cũ xây dựng từ năm 1924 đã được thay thế bằng tháp vòm cao 130 m và gánh đỡ luôn 5.000 tấn cho mái che có thể di chuyển nặng 7.000 tấn của Wembley. Việc tận dụng thiết kế của tháp vòm giúp cho tầm nhìn của khán giả không bị che chắn. Tháp vòm Wembley là cấu trúc mái lớn nhất thế giới (315 m) nên đứng ở bất cứ vị trí nào của London cũng có thể nhìn thấy.Viện y học Howard Hughes, Virginia, Mỹ
Viện y học Howard Hughes được coi là một thiên đường đối với các nhà khoa học. Tại đây có khu căn hộ cho các giáo sư thỉnh giảng và các nhà khoa học đến làm việc trong thời gian ngắn. Khu hội nghị và một khu nghiên cứu có diện tích tương đương một tòa nhà 85 tầng.Cầu Donghai, nối Thượng Hải - đảo Yangshan, Trung Quốc
Donghai hiện giữ kỷ lục là cây cầu vượt biển dài nhất thế giới với chiều dài 32 km và 6 làn đường. Cây cầu cáp dây văng duyên dáng này bắc ngang biển đông Trung Quốc, nối Thượng Hải với đảo Yangshan. Cầu Donghai là một phần dự án xây dựng cảng tự do thương mại đầu tiên của Trung Quốc và cũng là cảng container lớn nhất thế giới, dự kiến hoàn thành vào năm 2010. Giao thông vẫn đảm bảo an toàn trong điều kiện gió bão và lốc nhờ cầu được thiết kế theo hình chữ S. Theo Nhật báo Thượng Hải, cầu Donghai có chi phí lên tới 1,2 tỷ USD.

Làm nhà - Phong thuỷ

- Hãy thiết kế cho tôi một ngôi nhà hài hòa phong thủy !- Để chờ “thầy” xem xong rồi sẽ quyết định chỗ đặt bếp !- Cuối năm nay phải cất nhà rồi, năm tới là kỵ, còn một tháng làm nhà ba tấm có kịp không?
TPHCM với Kênh Nhiêu Lộc nhìn từ trên caoQua điện thoại, e-mail hay gặp trực tiếp, mỗi ngày người thiết kế đều nhận rất nhiều những yêu cầu như thế, lúc giống mệnh lệnh, khi như van nài, mà tựu trung chỉ nhằm một mục đích: quyết tâm làm nhà theo những chỉ định về Phong Thủy! Nhưng nếu ngồi nói chuyện lâu hơn để hỏi phong thủy thực chất là thế nào , tại sao lại kiêng cữ chỗ này chỗ kia… thì các gia chủ vừa rất cương quyết ấy cũng phân vân chẳng kém. Thôi “thầy “ đã phán vậy rồi, anh ráng giúp tôi!!!. Gia chủ về rồi, còn lại người thiết kế với một đống “đơn thuốc” chi chít, từ Mệnh Trạch Bát Quái đến kích thước Lỗ Ban; bếp quay hướng này, giường nằm phía kia…“Cả đời chú chỉ có mỗi ngôi nhà này” - lời vị gia chủ tóc hoa râm cứ văng vẳng bên tai. Phương án thiết kế có chỉnh sửa được chăng? Tạm quên mình là kiến trúc sư, tự xem ta là gia chủ: “Có thờ có thiêng”, chuyện cất nhà là đại sự, không lẽ không kiêng cữ? Mà nhà tui tui ở chứ mấy anh vẽ xong có ở đâu!”.
Một góc Văn Miếu Hà NộiLại nghĩ về vấn đề phong thủy đã gặp từ thuở vô tình xem mấy cuốn Bát Trạch như đọc truyện, chẳng hiểu nhiều nhưng ngấm lúc nào không biết. Khi học trường kiến trúc, mới ngộ ra vì sao cha ông ta ngày xưa làm nhà dựng cửa hài hòa tự nhiên như hơi thở, đặt đâu trúng đó, phải chăng “hay không bằng hên”? Chắc là không rồi, vì khi đi vào kho tàng văn hóa dân gian, thấy rõ việc nhà cửa xưa nay luôn là chuyện rất thiết thân trọng đại, ai dám xem thường? Nhưng “lưu trữ thông tin” qua bao lần dâu bể đến đời con cháu thời @ hôm nay đã bị “tam sao thất bản” nhiều quá. Lên mạng gặp bao nhiêu website về phong thủy, muốn xem hướng nhà chỉ cần một cái click chuột; làm ăn trục trặc hay gia đạo bất yên là kêu do… phong thủy xấu. Nhưng ba chủ thể tạo dựng ngôi nhà (người thiết kế, người xây dựng và người sử dụng) vẫn loay hoay thắc mắc thực hư về một vấn đề xưa như… kiến trúc. Vâng, nhiều giải pháp phong thủy luôn song hành với giải pháp kiến trúc, hay có người còn đùa rằng: ông tổ phong thủy chắc là người làm kiến trúc, thấy thuyết phục gia chủ khó quá bèn dùng phong thủy để khẳng định các ý tưởng của mình! Thực ra trong kiến trúc dân gian, việc xây nhà dựng cửa chủ yếu nhờ dân nghề thổ mộc, gia chủ cũng cùng tham gia từ đầu tới cuối, kinh nghiệm phong thủy hình thành từ quá trình xây cất và sử dụng, rồi truyền khẩu như một dạng kinh nghiệm sống. Còn kiến trúc sư hôm nay với chức năng nhiệm vụ được quy định rõ ràng thì đối xử với phong thủy thế nào? Người gật đầu chiều chuộng, kẻ tự ái gạt phăng, nhưng nhà nhà mới xây vẫn có sự can thiệp của “thầy phong thủy”, vẫn phải đập chỗ này, sửa chỗ kia… và vẫn thiếu đối thoại giữa gia chủ với nhà chuyên môn về chuyện phong thủy. Chuyện hôm qua - hôm nay Mọi ngôi nhà đều không thể tách rời các điều kiện thiên nhiên và điều kiện giao tiếp xã hội. An cư mới lạc nghiệp - ai cũng mong muốn ngôi nhà cho mình và cả thế hệ sau ở phải thật an, tức là thích ứng tốt với các biến động ngoại cảnh, tạo nên một môi trường hòa hợp cao với các thành viên cư trú cụ thể, đảm bảo bình yên và phát triển (khái niệm nhà nở hậu nên hiểu cả theo nghĩa thời gian, tức là về sau luôn được phát triển vững bền). Quan niệm như vậy nên cung cách chọn đất cất nhà của cư dân Việt xưa đề cao tính linh hoạt và thái độ ứng xử mềm dẻo với môi trường xung quanh. Thay vì tìm cách trấn áp thiên nhiên, nếp nhà truyền thống luôn khai thác tốt lợi điểm và khắc phục các hạn chế của thiên nhiên với biện pháp đơn giản, chi phí tiết kiệm, khẳng định văn hóa ở đặc sắc và phong phú: nhà phải đón được gió lành và thông thoáng tự nhiên, che chắn mưa tạt nắng chói, tổ chức cây xanh và mặt nước, tạo vùng chuyển tiếp trong - ngoài... Những dữ liệu từ thiên nhiên đều giải quyết ngay từ khâu chọn hướng, chọn đất lúc ban đầu, sau đó mới đến bố cục không gian và kỹ thuật xây cất. Mặc dù phong thủy là một khoa học – nghệ thuật gắn bó chặt chẽ với tổ chức không gian - môi trường sống, có lúc người ta đã nhầm lẫn và đánh đồng phong thủy với những yếu tố kỳ bí nhuốm màu mê tín dị đoan. Vì thế tiếp cận phong thủy còn phải luôn dựa trên quan điểm kế thừa và chỉnh lý, các luận đề trước đây và hiện nay về phong thủy hoàn toàn có thể soi rọi dưới ánh sáng khoa học và không ngừng kiểm nghiệm từ cơ bản đến chi tiết. “Chọn bạn mà chơi, chọn nơi mà ở”, chữ trạch trong Dương Trạch chính là sự tuyển chọn, tìm cái tốt nhất trong điều kiện có thể. Bài toán phong thủy trong bối cảnh hôm nay mang thêm nhiều phức tạp củasự gia tăng dân số, ô nhiễm môi trường, đất đai khan hiếm và thiên nhiên biến động. Tìm kiếm cuộc đất – ngôi nhà tốt chính là lựa chọn và giải quyết các hạn chế để từ đó nâng cao chất lượng môi trường ở. Tích hợp kinh nghiệm truyền thống và khoa học hiện đại, môn phong thủy ngày nay đang hướng đến những lời giải phù hợp và linh hoạt hơn, bởi mô hình cư trú cũng đa dạng hơn (biệt thự, nhà phố, chung cư). Nhưng chặng đường tìm kiếm bản sắc Việt (ít ra là về mặt phong thủy) xem ra vẫn lắm gian nan. Bước vào căn hộ chung cư có khi gặp ngay nơi bếp núc, chỗ đặt bàn thờ thì tìm mãi chẳng thấy - chỉ hai chuyện tối kỵ đó thôi đủ khiến nhiều người hoài niệm nếp nhà cũ, từ chối lên ở chung cư. Các vấn đề về vật lý kiến trúc, cấu tạo và địa chất công trình cũng đều là phong thủy đó chứ, nhưng chẳng hiểu sao ngày càng bị lấn át bởi sự dễ dãi hưởng thụ các sản phẩm kỹ thuật tân kỳ, quên mất thân xác của mình vốn vẫn đang chịu sự kiểm soát của Bà Mẹ Thiên Nhiên vĩ đại và nghiêm khắc. Chuyện niềm tin - trách nhiệm Trái đất vẫn quay cho dù ta không cảm nhận được, hay chỉ cảm nhận gián tiếp qua ngày và đêm, mặt trời mọc và lặn… Cũng thế, khoa phong thủy – theo tôi, gọi đích danh là khoa học và nghệ thuật về tổ chức nơi cư trú – vẫn tồn tại song hành với những người làm nghề lẫn dân ngoại đạo. Nhiều người hay xem phong thủy là độc quyền của Trung Hoa, nhưng thực ra bản năng xếp đặt nơi cư trú đã cùng tiến hóa với loài người dưới nhiều tên gọi tại nhiều vùng văn hóa khác nhau. Khoan đề cập những phạm trù sâu rộng và liên ngành của quy trình chọn lựa địa điểm xây dựng, của ứng dụng triết lý âm dương - ngũ hành, của sắp xếp bài trí nội thất sao cho hài hoà tâm sinh lý người sử dụng… mà chỉ xét đơn thuần ở khía cạnh tâm lý con người thì phong thủy là điều mọi cư dân đất Việt khi tạo dựng chốn ăn ở luôn nghĩ đến trước tiên và ám ảnh lâu dài, bất kể trình độ nhận thức và các nhầm lẫn về tên gọi cũng như tính xác thực. “Có bệnh thì vái tứ phương”, mà không bệnh (hay chưa bệnh) thì cũng luôn muốn “phòng bênh hơn chữa bệnh”. Y học hiện đại đã chứng minh rồi: yếu tố tâm lý chiếm quá nửa trong điều trị. Vấn đề là giảm thiểu những mơ hồ và biết đặt niềm tin đúng chỗ. Đó là phần gia chủ. Còn ở phía đối diện, việc thêm một dữ liệu cho bài toán của người làm kiến trúc, thêm chút thử thách (đôi khi chỉ vài câu “tôi muốn…” rất cá nhân của gia chủ thôi) cũng như thêm sự thú vị và bài toán giải được càng có giá trị hơn. Vậy tại sao người làm kiến trúc lại phải “nói không” với phong thủy? Nếu anh có thể xử lý những vấn đề phong thủy một cách khoa học, chắc chắn anh sẽ tròn trách nhiệm hơn, chủ động và sáng tạo nhiều hơn. Mặt khác, phong thủy trong nhà ở mới chỉ loay hoay nhỏ hẹp quanh một đối tượng sử dụng cụ thể, một miếng đất riêng biệt nào đó. Còn việc chọn địa điểm xây dựng khu dân cư hay khu công nghiệp, đô thị hay cả một vùng cư trú (quy trình tầm long – điểm huyệt – lập hướng) mới là vấn đề rộng và phức tạp hơn nhiều. Thế mà “từ thuở mang gươm đi mở cõi”, cha ông ta đã có những cái nhìn phong thủy đầy tính chiến lược và sáng tạo, minh chứng rõ ràng từ Thăng Long - Hà Nội đến Huế, Sài Gòn – TP.HCM… đâu đâu cũng in dấu những xếp đặt đầy ý tứ và hài hòa, rất gần gũi với kiến thức về Địa lý (Geography) của khoa học phương Tây và Địa phong thủy của phương Đông (*). Chẳng lẽ thế hệ sau với nhiều thuận lợi và phương tiện hiện đại lại không thể kế thừa và phát triển tốt hơn? Như Lão Tử đã từng nói về việc vo đất làm bình để hữu dụng cái phần rỗng trong chiếc bình, ta thấy rằng kiến trúc làm nhà không chỉ tạo ra các bề mặt vật chất, mà để gửi gắm qua những Hình ấy một Thế cụ thể, cho môi trường, cho gia chủ và cho cả nghiệp sáng tạo của mình. Vẽ phần rỗng, phần không khí đó (**) để ai đến nhà cũng buột miệng: nhà có kiến trúc sư có khác, tự hào lắm chứ ! Và cũng nhiều trăn trở lắm trước thực trạng thiếu tiếng nói chung giữa gia chủ và người chuyên môn khi đụng chạm vấn đề phong thủy. Mặt khác, cũng đừng xem phong thủy như liều thuốc an thần, mà hãy tự tạo cho mình chỗ ngủ ấm êm, một thân thể thanh sạch, một đầu óc thảnh thơi để giấc ngủ an nhiên tìm đến nhẹ nhàng. ( 17/10/2009-ST)

Tìm hiểu Văn Học thị trường

“Văn học nghệ thuật trong cơ chế thị trường và hội nhập”

Đây là cuốn sách tập hợp 41 bài phát biểu, tham luận của các nhà lãnh đạo, quản lý, các nhà khoa học, các văn nghệ sĩ, các đại biểu tham gia cuộc Hội thảo khoa học “Văn học, nghệ thuật trong cơ chế thị trường và hội nhập” do Hội đồng lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương tổ chức tại TP Hồ Chí Minh vào tháng 11/2008, vừa được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành.
Theo Lời nhà xuất bản, văn học, nghệ thuật thời kỳ đổi mới đã có những biển đổi sâu sắc, những đặc điêm mới, đã đạt được những thành tựu đáng kể: mở rộng đề tài, chủ đề; đa dạng trong nghệ thuật biểu hiện; có nhiều hình thức hoạt động, nhiều điều kiện giới thiệu, phổ biến tác phẩm; đội ngũ văn nghệ sĩ thuộc nhiều thế hệ hoạt động năng động, tự chủ hơn; trình độ lãnh đạo, quản lý được nâng cao hơn… Tuy nhiên, văn học nghệ thuật cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém cần vạch rõ, uốn nắn, đấu tranh, khắc phục…Nhưng, cho dù còn những hạn chế, văn học nghệ thuật đã, đang và sẽ tham gia tích cực vào việc phản ánh, tác động, cải biến hiện thực, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam. Hoà nhịp cùng sự nghiệp chung của đất nước, văn học nghệ thuật vẫn đang vận động, phát triển và đặt ra những vấn đề mới, những yêu cầu mới về lý luận thực tiễn đòi hỏi phải luôn có sự nhận xét, đánh giá, nghiên cứu một cách khoa học, định hướng phát triển văn học nghệ thuật một cách đúng đắn, phù hợp, thuyết phục. Cuốn sách “Văn học nghệ thuật trong cơ chế thị trường và hội nhập” được ấn hành chính là để góp phần đáp ứng những yêu cầu ấy.
Tiếp sau phần Mở đầu gồm 3 bài viết mang tính định hướng, đề dẫn, 38 tham luận được trình bày theo 3 phần: Phần thứ nhất – Những vấn đề lý luận chung; Phần thứ hai – Quản lý nhà nước về văn hoá; Phần thứ ba – Vấn đề thị trường các sản phẩm văn hoá, văn học, nghệ thuật ở nước ta. Các bài viết đã đề cập đến những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách trong đời sống văn học nghệ thuật nước ta như: sự tác động của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đến các hoạt động tinh thần của xã hội, vấn đề xã hội hóa nghệ thuật, việc đổi mới hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hoá, các vấn đề về quản lý văn học nghệ thuật trong cơ chế thị trường…, qua đó cho thấy rõ những bước tiến, những thành tựu đã đạt được, những thách thức, trăn trở, những việc cần phải làm, phải rút kinh nghiệm… để văn học nghệ thuật phát triển xứng đáng với dân tộc và thời đại. Là một tập hợp của trí tuệ và tâm huyết cùng đồng thuận hướng tới sự phát triển của văn học nghệ thuật đất nước, các bài viết trong “Văn học nghệ thuật trong cơ chế thị trường và hội nhập” cũng đã góp phần đề xuất, kiến nghị những hướng giải quyết cho các câu hỏi hết sức quan trọng đặt ra hiện nay: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế, giao lưu văn hoá quốc tế, văn nghệ sĩ phải làm gì? Đảng, Nhà nước phải có trách nhiệm gì để phát triển nền văn học, nghệ thuật nước nhà trong sự bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc?
Thông qua những kiến giải sâu rộng trên cơ sở bám sát thực tiến đời sống văn học nghệ thuật, cuốn sách sẽ giúp bạn đọc có điều kiện nghiên cứu, tìm hiểu về những vấn đề lớn, quan trọng của văn học nghệ thuật nước nhà hiện nay.

Lý Luận Văn Học thập niên 1950-1960 của người Mỹ

“Lý luận văn học” của René Wellek và Austin Warren đến với bạn đọc Việt Nam
11:14 21/08/2009
“Lý luận văn học” - một trong những công trình lí luận văn học căn bản có ảnh hưởng lớn trong các trường đại học Anh - Mỹ thập niên 50, 60 của hai học giả nổi tiếng người Mỹ René Wellek và Austin Warren vừa được Trung tâm Nghiên cứu Quốc học và Nhà xuất bản Văn học cho ra mắt.
Cuốn sách này chủ yếu do TS Nguyễn Mạnh Cường dịch từ bản tiếng Nga, Tạ Hương Nhi dịch “Lời giới thiệu” và “Phần V” (chương XX) vốn chỉ có ở bản in tiếng Anh. PGS.TS. Trịnh Bá Đĩnh đã xem lại bản thảo và có những việc làm thiết thực để cuốn sách sớm đến được với độc giả Việt Nam.
60 năm qua kể từ ngày ra mắt bạn đọc lần đầu tiên vào năm 1949 tại Mỹ, tác phẩm này luôn là cuốn lý luận văn học cơ sở được phổ cập rộng rãi nhất trên thế giới, là cẩm nang không thể thiếu của những người nghiên cứu ngành ngữ văn. Cuốn sách đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng như Nga, Tây Ban Nha, Pháp, Ý, Đức, Nhật, Hy Lạp, Thuỵ Điển... Theo GS.TS Mai Quốc Liên, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Quốc học, “ở Việt Nam, từ lâu một số nhà nghiên cứu văn học thạo ngoại ngữ đã biết đến công trình này, phần đông thì mới chỉ nghe đến. Sự ra mắt bản dịch tiếng Việt lần này đã là quá chậm trễ, song nó là việc phải làm nếu chúng ta không muốn ngành nghiên cứu văn học của mình cô lập với toàn bộ phần còn lại của cộng đồng khoa học thế giới”.
Trong bản dịch do Nhà xuất bản Văn học và Trung tâm nghiên cứu Quốc học ấn bản, ngoài “Lời nói đầu” do GS.TS. Mai Quốc Liên viết và cấu trúc vốn có 5 phần của công trình, cuốn sách còn tuyển in thêm bài viết có tính phê phán của Viện sĩ A. Anikst, mở đầu cho bản in tiếng Nga. Nhà nghiên cứu Trần Thiện Khanh cho biết, cuốn sách “Lý luận văn học” của Wellek và Warren “không trình bày “những nguyên lí cảm thụ văn học cơ bản” mà hướng đến “những nghiên cứu có hệ thống về các thể loại văn chương, về phong cách học và nguyên lí phê bình văn học”. Người đọc có thể tìm thấy ở đó sự thống nhất giữa cái tĩnh tại của thi pháp học (lí thuyết văn học) và phê bình (sự định giá văn học) với sự vận động của học thuật (hay nghiên cứu) và lịch sử văn học”.
Những vấn đề được đề cập đến trong cuốn “Lý luận văn học” được đánh giá là “có giá trị khoa học ổn định nhất thế kỷ XX” này hy vọng sẽ đem lại nhiều điều bổ ích cho những người muốn đào sâu nghiên cứu về lĩnh vực này, đồng thời sẽ có tác động hiệu quả đến sinh hoạt lí thuyết văn học đương đại.
Thương Huyền

Từ Tống Bình đến Hà Nội


Tên gọi và Lịch sử


Biểu tượng của thành phố Hà Nội - Khuê Văn Các
Tên gọi
Hà Nội đã trải qua nhiều tên gọi khác nhau trong lịch sử. Trong thời kỳ cai trị của
người Trung Quốc nó từng có tên là huyện Tống Bình, xuất hiện trong sử sách từ những năm 454-456 thời Nam Bắc triều của Trung Quốc.
Năm 545, Lý Bí đánh thắng quân
nhà Lương lập nên nước Vạn Xuân độc lập. Ông tự xưng Lý Nam Đế, định đô ở miền cửa sông Tô Lịch, Hà Nội. Ông cho lập điện Vạn Thọ là nơi họp bàn việc nước. Lý Nam Đế cũng cho dựng một ngôi chùa lớn ở phường Yên Hoa (Yên Phụ) tên là Khai Quốc, tiền thân của Chùa Trấn Quốc ngày nay.
Thời kỳ bị phương Bắc độ hộ:
nhà Tùy (581-618), nhà Đường (618-907), trị sở ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay), tới đời Tùy chúng mới chuyển đến Tống Bình, tức Hà Nội.
Thành cũng còn có tên là Đại La. Sách
Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục có viết:
"Thành này do Trương Bá Nghi đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 (
767) đời Đường; năm Trinh Nguyên thứ 7 (791), Triệu Xương đắp thêm; năm Nguyên Hòa thứ 3 (808), Trương Chu lại sửa đắp lại; năm Trường Khánh thứ 4 (824), Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên sông Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ, gọi là La Thành; năm Hàm Thông thứ 7 (866), Cao Biền đắp ngoại thành bao quanh "kim thành", cũng gọi tên là La Thành."
Đại La, hay Đại La thành, nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy vòng thành nhỏ hơn ở trong, gọi là Kinh Đô hay kim thành. Theo kiến trúc xưa, Kinh Đô thường có "Tam trùng thành quách": trong cùng là Tử Cấm thành (tức bức thành màu đỏ tía) nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La thành. Năm 866 Cao Biền bồi đắp thêm Đại La thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là thành Đại La. Thí dụ trong Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có viết: "... Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biền) ở giữa khu vực trời đất..." (Toàn thư, Tập I, H, 1993, tr 241).
Long Đỗ (rốn rồng) cũng là một tên gọi của Hà Nội, nhưng không phải tên gọi chính thức, tên gọi này xuất hiện từ thời Cao Biền. Truyền thuyết kể rằng, vào năm 866, khi Cao Biền mới đắp thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ.
Khi
Việt Nam giành được độc lập, Hà Nội lúc đó trở thành thủ đô của Đại Việt từ thế kỷ thứ 11, với tên gọi Thăng Long (昇龍, có nghĩa là "rồng bay lên"), sau khi Lý Công Uẩn ra chiếu dời đô năm 1010 từ Hoa Lư. Đây được xem là mốc son đánh dấu sự phát triển của thủ đô Hà Nội Việt Nam. Thăng Long là thủ đô cho đến năm 1397, khi thủ đô được di chuyển về Thanh Hóa, (tức Tây Đô). Thăng Long khi đó có tên gọi là Đông Đô.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết:
"Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương - TM) coi phủ đô hộ là Đông Đô" (Toàn thư Sđd - tr 192).
Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà Nguyễn chú thích:
"Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hoá là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô" (Cương mục - Tập 2, H 1998, tr 700).
Năm
1408, nước Đại Ngu của cha con họ Hồ bị quân đội của nhà Minh xâm chiếm và Đông Đô bị người Minh đổi tên thành Đông Quan.
Năm
1428, sau khi quân đội của Lê Lợi giải phóng đất nước thì Đông Quan được đổi tên thành Đông Kinh - tên gọi này người châu Âu phiên âm thành Tonkin. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau:
"Mùa hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi (1427), Vua (tức Lê Lợi - TM) từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15 vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh" (Toàn thư - Sđd. Tập 2, tr 293).


Bản đồ Hà Nội đầu thế kỷ 19
Thời
Tây Sơn, vì kinh đô đóng ở Phú Xuân thành còn có tên là Bắc Thành.
Năm
1802, khi nhà Nguyễn chuyển kinh đô về Huế, nó lại được đổi tên thành Thăng Long, nhưng lần này chữ "Long" (隆) biểu hiện cho sự thịnh vượng, chứ không phải là rồng, với lý do rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "rồng" (Trần Huy Liệu (chủ biên), Lịch sử thủ đô Hà Nội, H. 1960, tr 81).
Sau đó vua
Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ hoàng thành cũ, vì vua không đóng đô ở Thăng Long, mà hoàng thành Thăng Long lại rộng quá.
Năm
1831 vua Minh Mạng lập ra tỉnh Hà Nội: tỉnh nằm trong (Nội) hai con sông (Hà) là sông Hồngsông Đáy.
Khi Việt Nam tiếp xúc với
phương Tây, tên Hán-Việt của Hà Nội Đông Kinh, được viết thành Tonkin và được người châu Âu dùng phổ biến. Năm 1873, người Pháp bắt đầu tiến đánh Hà Nội và 10 năm sau thì chiếm toàn bộ. Từ năm 1887, Hà Nội trở thành thủ phủ của Đông Dương thuộc Pháp.


Bản đồ Hà Nội 1890
Năm
1940, thành phố bị phát xít Nhật xâm chiếm và đến năm 1945 Hà Nội được giải phóng và là nơi đặt các cơ quan của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ 1946 đến 1954, Hà Nội là chiến địa ác liệt giữa Việt Minh và quân đội Pháp. Sau khi được giải phóng vào ngày 10 tháng 10 năm 1954, Hà Nội trở thành thủ đô của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong
Chiến tranh Việt Nam, các công trình giao thông của Hà Nội như cầuđường tàu bị bom đạn phá hủy, tuy nhiên ngay lập tức được sửa chữa. Trong thời gian này Hà Nội được xưng tụng là "Thủ đô của phẩm giá con người". Hà Nội trở thành thủ đô của toàn Việt Nam sau ngày Bắc Nam thống nhất 2 tháng 7 năm 1976.
Hà Nội còn có nhiều các tên gọi không chính thức khác, chủ yếu xuất hiện trong văn thơ và dân gian: Trường An hay Tràng An (lấy theo tên gọi của kinh đô của
Trung Quốc thời kỳ nhà Hánnhà Đường); Phượng Thành hay Phụng Thành (trong bài phú của Nguyễn Giản Thanh); Long Thành, Long Biên, Kẻ Chợ (trong dân gian); Thượng Kinh, Kinh Kỳ, Hà Thành, Hoàng Diệu, ngay sau Cách mạng tháng Tám - 1945, đôi khi trong các báo chí của Việt Nam sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.
Phạm Xuân Thành @ 00:44 28/06/08

Kích thước xem thử: 769 × 599 điểm ảnhĐộ phân giải tối đa‎ (1.977×1.541 điểm ảnh, kích thước tập tin: 167 kB, định dạng MIME: image/gif)
Hình lấy từ Centre d'Archives de l'I.F.A. Hình vẽ từ cuối thế kỷ 19, bản quyền (nếu có) đã hết hạn.
Hoàng thành Thăng Long từ thế kỷ X đến thế kỷ XV
Mùa thu năm 1010, sau khi công bố
Thiên đô chiếu Lý Công Uẩn cùng các quần thần đã gấp rút xây dựng những công trình cơ bản của Kinh thành Thăng Long. Đến đầu năm 1011 thì hoàn thành. Khi mới xây dựng, Kinh thành Thăng Long được xây dựng theo mô hình Tam trùng thành quách gồm: vòng ngoài cùng gọi là La thành hay kinh thành, vòng thành thứ hai là Hoàng Thành, giữa hai lớp thành này là nơi sinh sống của cư dân, lớp thành còn lại là Tử cấm thành hay Cấm thành hay Long Phượng thành là nơi ở của nhà vua. Các thời sau đều theo cách ấy mà phân chia.
Ngay từ năm 1010, khi mới định đô Thăng Long, Lý Công Uẩn đã khởi công xây dựng Hoàng Thành và hàng loạt cung điện ở trong Hoàng Thành. Hoàng thành đắp bằng đất, phía ngoài có hào, mở 4 cửa: Tường Phù ở phía đông, Quảng Phúc ở phía tây, Đại Hưng ở phía nam, Diệu Đức ở phía bắc. Tuy còn những ý kiến khác nhau, nhưng căn cứ vào sử liệu và di tích còn lại, có thể xác định cửa Tường Phù mở ra phía Chợ Đông và khu phố buôn bán tấp nập của phường Giang Khẩu và đền Bạch Mã. Cửa Quảng Phúc mở ra phía chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) và chợ Tây Nhai (chợ Ngọc Hà). Cửa Đại Hưng ở khoảng gần Cửa Nam hiện nay. Cửa Diệu Đức nhìn ra trước sông Tô Lịch, khoảng đường Phan Đình Phùng hiện nay. Những cung điện chính còn thấy trong sử sách như: điện Càn Nguyên là nơi thiết triều đặt trên
núi Nùng tức núi Long Đỗ, hai bên tả hữu là điện Tập Hiền và điện Giảng Vũ. Bên trái mở cửa Phi Long thông với cung Nghinh Xuân, bên phải mở cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, chính Bắc dựng điện Cao Minh. Thềm các quan chầu vua gọi là Long Trì có hành lang chạy xung quanh. Đằng sau điện Càn Nguyên là điện Long An và điện Long Thụy làm nơi nhà vua nghỉ ngơi. Bên trái xây điện Nhật Quang, bên phải xây điện Nguyệt Minh, đằng sau là cung Thúy Hoa là nơi ở của các phi tần.


Sơ đồ tham quan di tích thành cổ Hà Nội
Năm 1029, Lý Thái Tôn xây dựng lại toàn bộ khu cấm thành sau khi nơi đây bị tàn phá bởi vụ
Loạn tam vương. Trên nền cũ điện Càn Nguyên, Lý Thái Tôn cho dựng điện Thiên An làm nơi thiết triều. Hai bên tả hữu là điện Tuyên Đức và điện Thiên Phúc. Phía trước điện Diên An là sân Rồng có đặt một quả chuông lớn. Hai bên tả hữu sân rồng có đặt gác chuông. Phía đông, tây sân Rồng là điện Văn Minh và điện Quảng Vũ, phía trước sân rồng là là điện Phụng Tiên, trên Điện có lầu Chính Dương là nơi báo canh báo khắc. Sau điện Diên An là điện Thiên Khánh hình Bát Giác. Sau điện Thiên Khánh là điện Trường Xuân. Trên điện Trường Xuân có gác Đồ Long. Từ điện Thiên Khánh nối với điện Thiên An ở phía sau đều có bắc cầu gọi là cầu Phượng Hoàng Năm 1293, vua Lý Cao Tôn bắt đầu một đợt xây dựng mới. Cung điện mới được xây ở phía tây tẩm điện. Bên trái dựng điện Dương Minh, bên phải dựng điện Chính Nghi, ở trên xây điện Kính Thiên, thềm gọi là Lệ Giao. ở giữa mở cửa Vĩnh Nghiêm, bên phải mở cửa Việt Thành, thềm gọi là Ngân Hồng. Đằng sau xây điện Thắng Thọ. Bên trái xây gác Nhật Kim, bên phải xây gác Nguyệt Bảo, xung quanh dựng hành lang thềm gọi là Kim Tinh. Bên trái gác Nguyệt Bảo là tòa Lương Thạch, phía tây xây gác Dục Đường (nhà tắm). Phía sau xây gác Phú Quốc, thềm gọi là Phượng Tiêu. Phía sau dựng cửa Thấu Viên, ao Dưỡng Ngư trên ao xây đình Ngoạn Y. Ba mặt đình có trồng hoa thơm cỏ lạ nước thông với sông. Ngoài ra các cung điện khác cũng được xây dựng liên tục, không đòi nào không có không mấy năm không có. Mỗi cung điện thường đèu có tường bao xung quanh và làm cửa thông với cung điện khác. Ngoài cung điện, các vị vua nhà Lý còn cho xây dựng nhiều công trình văn hóa tín ngưỡng khác để phục vụ cho vua và hoàng tộc như: đền Quan Thánh, chùa Chân Giáo (nơi vua Lý Huệ Tôn đã tu hành), đài Chúng Tiên dựng năm 1161 tầng trên lợp ngói bạc, hồ ao làm cảnh cũng được lập khá nhiều trong Hoàng Thành. Năm 1049, đào hồ Kim Minh vạn tuế, đắp núi đá cao ba ngọn trên mặt hồ và xây cầu Vũ Phượng đi vào, 10 năm sau lại xây thêm điện Hồ Thiên bát giác ở đấy. Năm 1051 đào hồ Thụy Thanh, Hồ Ứng Minh. Năm 1098, đào hồ Phượng Liên và xây tại đây điện Sùng Uyên, bên trái lập điện Huy Dương, đình Lai Phượng bên phải dựng điện Ánh Thiềm, đình Át Vân, phía trước xây lầu Trường Minh, phía sau bắc cầu Ngoạn Hoa Nhiều vườn ngự cũng được dựng nên trong Hoàng Thành. Mùa thu năm 1048, mở luôn 3 vườn ngự: vườn Quỳnh Lâm, vườn Thắng Cảnh và vườn Xuân Quang. Năm 1065, mở thêm vườn Thượng Lâm. Giữa thế Kỷ 14 lại dựng một vườn ngự nữa nối liền với hậu cung. Theo sử cũ còn ghi giữa vườn có đào một cái hồ lớn: "Trong hồ chất đá làm núi, trên bờ hồ trồng thông, trúc và nhiều thứ kỳ hoa diệu thảo khác thêm vào đấy là chim quý thú lạ. Bốn mặt khai cho sông nước thông vào, gọi hồ ấy là hồ Lạc Thanh Trì. Về phía tây hồ trồng hai cây quế, dựng một tòa điện gọi là điện Lạc Thanh. Lại đào các hồ nhỏ khác, bắt người ở Hải Đông chở nước măn chứa vào hồ ấy, đẻ nuôi các loài hải sản như đồi mồi cá biển và các loại ba ba. Rồi bắt người Hóa Châu bắt cá sấu thả vào đấy. Lại có hồ Thanh Ngư dể nuôi cá Thanh Phụ (cá diếc đuôi đỏ vảy biếc)... Lại làm dãy hành lang ở tây điện thẳng đến cửa Hoàng Phúc, dựng dãy Trường Lang từ gác Nguyên Huyền đến cửa Đại Triều phía tây
Hoàng thành Thăng Long từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII
Sau khi chiến thắng giặc Minh, Lê Lợi vẫn đóng đô ở Thăng Long nhưng đổi tên là Đông Đô rồi Đông Kinh (1430). Về cơ bản Đông Đô thời Lê không khác nhiều Thăng Long đời Lý Trần Hồ chỉ có điều cung điện đền đài đã bị phá phách hết cả nhà Lê mới dần dần sửa chữa xây dựng thêm.


Bản đồ thành Thăng Long thời Lê
Từ năm 1490 cho đến thế kỷ 16 kinh thành mới có nhiều thay đổi. Trong thời gian này tường hoàng thành cũng như Đại La thành luôn được xây đắp mở rộng thêm ra. Năm 1490, để đề phòng những nạn loạn đảng như
Nghi Dân đang đêm trèo tường vào giết Lê Nhân Tôn ở trong cung, Lê Thánh Tôn cho xây lại Hoàng Thành mở rộng thêm 8 dặm nữa. Công việc xây dựng trong 8 tháng mới xong. Trong Hoàng Thành Lê Thánh Tôn cũng cho xây thêm cung điện và lập vườn Thượng lâm để nuôi bách thú. Năm 1512, Lê Tương Dực giao Vũ Như Tô đứng ra trông nom việc dựng hơn 100 nóc cung điện nguy nga, lại khởi công làm Cửu Trùng Đài mà như sử cũ miêu tả là tuy chưa hoàn thành mà bóng rợp nửa hồ Tây. Năm 1514, Lê Tương Dực mở rộng Hoàng Thành thêm mấy nghìn trượng (mỗi trượng là 3m60)bao bọc cả điện Tường Quang, Quán Trấn Vũ và chùa Kim Cổ Thiên Hoa. Từ năm 1516 đén năm 1527 là năm nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê kinh thành Thăng Long chìm trong loạn lạc. Hầu hết các cung điện kho tàng đền chùa cũng như phường phố bị thiêu đốt tàn phá nhiều lần. Trong nửa cuối thế kỷ 16, cục diện Nam Bắc triều với một bên là nhà Mạc và một bên là Lê-Trịnh diễn ra quyết liệt với ưu thế ngày càng thuộc về phe Nam triều. Họ Trịnh lần lượt chiếm được nhiều tỉnh phía bắc như Ninh Bình, Hà Nam, Bắc Ninh... và đánh đến tận Thăng Long. Nhà Mạc phải rời bỏ kinh thành chạy lánh nạn nơi này nơi khác. Thăng Long ngày một điêu tàn. Đến năm 1585, không chịu nổi kiếp sống lưu vong trường kỳ như vậy, Mạc Mậu Hợp quyết định trở lại Thăng Long. Một đợt xây dựng đại quy mô được khởi động. Từ đó về sau cũng không có lần nào Hoàng Thành được xây dựng quy mô như thế nữa. Năm 1599 Trịnh Tùng đuổi được nhà Mạc lên Cao Bằng tiến về tiếp quản Thăng Long. Hoàng Thành được tu sửa trong một tháng để đón vua Lê ra. Rồi từ ấy trở đi những cung điện mới xây ở đều nằm trong phủ Chúa. Hoàng Thành bị bỏ hoang phế nhiều.
Thành Hà Nội từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX
Sự chuyển đổi từ Kinh thành Thăng Long sang Tỉnh thành Hà Nội
Năm 1788,
Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị đem đại quân 29 vạn người sang chiếm Thăng Long không tốn một hòn tên mũi đạn. Dựa thế quân Thanh Lê Chiêu Thống điên cuồng trả thù họ Trịnh. Phủ chúa bị Lê Chiêu Thống đốt trụi cháy ròng rã một tuần mới hết. Tất cả những gì liên quan đến chúa Trịnh ở Thăng Long bị phá sạch. Kinh thành lại một lần nữa ra tro. Đầu năm 1789, Quang Trung Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ ba đánh tan quân Thanh, Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, triều Hậu Lê kết thúc, Quang Trung định đô ở Phú Xuân. Thăng Long chỉ còn là Bắc thành. Năm 1802 sau khi tiêu diệt xong Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng Đế. Kinh đô vẫn được đặt ở Phú Xuân. Thăng Long vẫn mang tên gọi là Thăng Long nhưng chữ "Long" là rồng bị chuyển thành chữ "Long" nghĩa là thịnh vượng ý rằng nhà vua không còn ở đấy. Đồng thời những gì còn sót lại của Hoàng Thành sau những trận đại hủy diệt cuối thế kỉ 18 cũng lần lượt bị các đời vua nhà Nguyễn chuyển nốt vào Phú Xuân phục vụ cho công cuộc xây dưng kinh thành mới. Chỉ duy có điện Kính ThiênHậu Lâu được giữ lại làm hành cung cho các vua Nguyễn mỗi khi Ngự giá Bắc thành.


Bản đồ Hà Nội đầu thế kỉ 19
Năm 1805,
Gia Long cho phá bỏ tường của Hoàng Thành cũ vì cho rằng đây chỉ còn là Trấn Bắc thành mà Hoàng Thành Thăng Long thì rộng lớn quá. Gia Long cho xây dựng thành mới theo kiểu Vauban của Pháp. Về quy mô thì nhỏ hơn thành cũ nhiều. Năm 1831, trong cuộc cải cách hành chính lớn Minh Mạng đã cho đổi tên Thăng Long thành tỉnh Hà Nội. Cái tên này tồn tại cho đến năm 1888 khi nhà Nguyễn chính thức nhượng hẳn Hà Nội cho Pháp. Người Pháp đổi Hà Nội thành thành phố. Đến khi chiếm xong toàn Đông Dương họ lại chọn đây là thủ đô của Liên Bang Đông Dương thuộc Pháp. Thành Hà Nội bị phá đi hoàn toàn để lấy đất làm công sở và trại lính cho người Pháp. Ngoại trừ cửa Bắc và cột cờ những gì còn sót lại của thành Hà Nội đến hôm nay chỉ là di chỉ khảo cổ và phục dựng.
Tỉnh thành Hà Nội thời Nguyễn
Thành Hà Nội do Gia Long xây dựng cũng làm theo thể thức các tỉnh thành khác và điều chủ yếu là không được to rộng hơn Phú Xuân. Thành vuông xây theo kiểu Vauban của Pháp. Thành hình vuông mỗi bề chừng một cây số xung quanh là hào nước sâu. Bốn bức tường thành tương ứng với bốn con phố hiện nay là: phố Phan Đình Phùng ở phía Bắc, phố Lý Nam Đế ở phía Đông, phố Trần Phú ở phía Nam, đường Hùng Vương ở phía Tây.
Hình:Hanoi-1885. gif
Hình vuông trên bản đồ là Thành Hà Nội thời Nguyễn
Tường thành xây bằng gạch hộp chân thành xây băng đá xanh và đá ong. Tường cao 1trượng 1thước, dày 4 trượng. Thành mở ra 5 cửa là: cửa Đông (tương ứng với phố cửa Đông bây giờ), cửa Tây (tương ứng với phố Bắc Sơn hiện nay),
cửa Bắc (nay vẫn còn), cửa Tây Nam (tương ứng với chợ Cửa Nam hiện nay), cửa Đông Nam (tương ứng với đoạn giao phố Điện Biên Phủ và Nguyễn Thái Học bây giờ). Đường vào cửa xây vòm xuyên qua tường thành dài 23 m. trên mỗi cửa có lầu canh gọi là thú lâu.


Cửa Nam thành Hà Nội sau khi bị người Pháp tấn công
Xung quanh tường thành là một dải đất rộng 6-7m rồi đến một con hào rộng 15-16 m, sâu 5 m thông với sông
Tô Lịchsông Hồng. Hào lúc nào cũng có nước nhưng thường chỉ cao khoảng 1 m. Phía ngoài các cổng thành có xây một hàng tường đắp liền trên bờ hào gọi là Dương mã thành, dài 2trượng 9 thước, cao 7 thước 5 tấc. các Dương mã thành đều cố một cửa bên gọi là Nhân Môn. Từ ngoài thành đi vào đều phải đi qua Nhân Môn rồi mới đến cổng thành. Phía trong thành được bố trí như sau:


Ở trung tâm thành là điện Kính Thiên được xây dựng từ thời Lê trên núi Nùng. Điện dựng trên những cột gỗ lim lớn người ôm không xuể. Thềm điện có hai đôi rồng đá rất đẹp cũng từ thời Lê. Sau điện này bị người Pháp phá hủy và xây trên nền cũ tòa nhà Con Rồng để làm trụ sở pháo binh Pháp. Sau năm 1954 nhà con Rồng lại trở thành trụ sở của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đây cũng chính là nơi diễn ra cuộc họp Bộ chính trị mở rộng ngày 21/3/1975 hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 75-76.


Phía đông thành là nhiệm sở của Tổng trấn Bắc thành Phía tây là kho thóc, kho tiền, và dinh bố chính là viên quan phụ trách những kho ấy. Năm 1812 dựng Cột cờ Hà Nộiở phía nam thành Năm 1835, vì cho răng thành Hà Nội cao hơn kinh thành Huế, Minh Mạng cho xén bớt 1 thước 8 tấc, thành Hà Nội chỉ còn cao chừng 5 m Năm 1848, vua Tự Đức cho tháo dỡ hết những cung điện còn lại ở Hà Nội chuyển vào Huế.
Di tích Thành cổ Hà Nội
Cột cờ Hà Nội
Xem thêm trang
Cột cờ Hà Nội
Đoan Môn
Đoan Môn là cửa vòm cuốn dẫn vào điện Kính Thiên. Đoan Môn gồm năm cổng xây bằng đá, phía ngoài là cửa Tam Môn khoảng 1812 - 1814, triều Nguyễn Gia Long phá, xây Cột Cờ (nay vẫn còn sừng sững).


Năm 2002, giới khảo cổ học Việt Nam được phép đào phía trong Đoan Môn đã tìm thấy “lối xưa xe ngựa” thuộc thời Trần, dùng lại nhiều gạch Lý. Nếu khai quật tiếp, sẽ có thể thấy cả con đường từ Đoan Môn đến điện Kính Thiên ở phía Bắc và cửa Tây Nam thành Hà Nội.
Điện Kính Thiên và khu A thành Hoàng Diệu
Rồng đá điện Kính Thiên
Điện Kính Thiên, vốn là trung tâm của Hoàng Thành thời Lê rồi tỉnh thành Hà Nội thời Nguyễn, bị người Pháp phá hủy khi họ chiếm được thành Hà Nội. Thềm điện gồm 9 bậc, được ngăn thành ba lối lên. Rồng đá điện Kính Thiên (ảnh) là một di sản kiến trúc nghệ thuật tuyệt tác, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc thời Lê sơ. Được chạm trổ bằng đá xanh, rồng đá có đầu nhô cao, đầu to, mắt tròn lồi, sừng dài có nhánh, bờm lượn ra sau, miệng há nhỏ, ngậm hạt ngọc.
Thân rồng uốn lượn mềm mại thành nhiều vòng cung, nhỏ dần về phía nền điện, trên lưng có đường vây dài nhấp nhô như vân mây, tia lửa. Hai thành bậc ở hai bên thềm điện là hai khối đá chạy dài, chính là hai con rồng được cách điệu hoá. Nền điện Kính Thiên và đôi rồng chầu đã phần nào phản ánh được quy mô hoành tráng của điện Kính Thiên xưa.
Nhà Con Rồng
Nhà D67
Từ Tổng hành dinh - Nhà D67 Khu A Bộ quốc phòng, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã đưa ra những quyết định lịch sử đánh dấu những mốc son của cách mạng Việt Nam. Đó là: Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 Cuộc Tổng tiến công năm 1972 Đánh thắng hai cuộc chiến của Mỹ mà đỉnh cao là 12 ngày đêm cuối năm 1972. Tổng tiến công năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh .
Nhà D67
Hầm ngầm D67


Phòng họp Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương trong hầm ngầm D67
Khu hầm lớn nhất nằm dưới khoảng sân nối giữa điện Kính Thiên và nhà D67 dành cho Bộ Chính trị và Quân ủy trung ương gọi là hầm D67.
Hai đường dẫn xuống hầm bắt nguồn từ hai phòng làm việc của tướng Giáp và tướng Dũng trong nhà D67, đường hầm rộng 1, 2m, có 45 bậc thang bêtông, trát đá granite. Đi sâu xuống 10m là hệ thống văn phòng của tổng hành dinh ngầm gồm bốn phòng rộng 50m2, chung một hành lang bên phải.
Phòng họp hình chữ nhật toàn khối, nền lát gạch, có một cửa ra vào. Các phòng bên dành cho ban thư ký và phòng để máy móc, điện đài. Cuối cùng là phòng chứa hệ thống thông hơi, lọc khí đồ sộ chạy điện được chế tạo tại Liên Xô. Các lối lên xuống của hai đường hầm và cửa ra vào có tới sáu cửa thép sơn xanh dày 12cm, có nhiều tay nắm và hệ thống gioăng cao su có thể ngăn nước và khí độc.
Toàn bộ hệ thống hầm ngầm đều liên hoàn đường điện máy phát. Hệ thống thông tin, liên lạc, hậu cần, lương thực… đều đầy đủ. Đầu ra của hai cửa hầm này dẫn lên phòng làm việc của hai đại tướng tại nhà con rồng. Ngoài hệ thống hầm ngầm này, khu A thành cổ còn nhiều hệ thống hầm ngầm khác. Riêng những bộ phận đã được bàn giao cho ban quản lý thành cổ là bốn khu hầm.
Ngoài hầm của Bộ Chính trị vừa nói còn có hầm trước cửa nhà “con rồng” (dưới nền điện Kính Thiên), hầm gần khu làm việc của Cục Tác chiến và hầm của Ban cơ yếu có qui mô nhỏ hẹp, đơn giản hơn nhưng cũng chống được bom và tên lửa hạng nặng.
Thượng tướng Lê Ngọc Hiền cho biết: những năm 1965- 1966 Mỹ bắn phá miền Bắc, Bộ Tổng tham mưu lập kế hoạch bảo đảm an toàn cho cơ quan đầu não tại thành cổ với ba mức: báo động, xuống hầm và di tản. Hệ thống hầm ngầm sẽ được sử dụng ở mức báo động 2.
Ông kể: Nhiệm vụ thiết kế, xây dựng nhà, hầm được giao cho Bộ tư lệnh Công binh. Một số bộ phận như máy thông hơi, lọc khí, cửa sắt, điện đài… được nhập khẩu từ Liên Xô. Khoảng 300 cán bộ từ nhiều trung đoàn chuyên môn được huy động đào, xây hầm.
Hằng đêm, vào giờ giới nghiêm, thắp điện làm việc trong sự canh phòng cẩn mật. Hệ thống nhà, hầm được xây dựng sáu tháng thì hoàn tất. Bộ Chính trị, Quân ủy trung ương dời địa điểm làm việc từ nhà “con rồng” xuống nhà D67. Thời kỳ Mỹ ném bom thỉnh thoảng Bộ Chính trị mới phải làm việc dưới hầm ngầm Tại hầm ngầm dành riêng cho Cục Tác chiến trong thành cổ Hà Nội hôm nay vẫn còn rất nhiều máy điện thoại thời chiến.
Khu khảo cổ 18 Hoàng Diệu-"Nơi trung tâm của trung tâm"
Di tích này bao gồm tầng dưới cùng là một phần bên phía đông của thành Đại La dưới thời Cao Biền, nhà Đường, tầng trên là cung điện nhà Lý và nhà Trần, tiếp theo là một phần trung tâm của đông cung nhà Lê và trên cùng là một phần của trung tâm tòa thành tỉnh Hà Nội thế kỷ 19.
Giáo sư Nguyễn Thừa Hỷ nói riêng về bề mặt Lý-Trần ở tầng hai có rất nhiều hiện vật được phát hiện, như những nền cung điện, có kích thước một chiều hơn 60 mét, chiều kia 27 mét. Có 40 chân cột, rồi cả giếng cổ, gạch, phù điêu. "Có tượng rồng, phượng mà được các nhà nghiên cứu mỹ thuật khẳng định là mô típ hoa văn thời Lý. Rồi đến những tầng lớp bên trên, thời Lê, Nguyễn đều tìm được nhiều hiện vật. Tổng cộng là ba triệu hiện vật. "


Khu 18 Hoàng Diệu là hình vuông màu đỏ trên bản đồ
Khi tiến hành khai quật ở hố B16 (400m2) thuộc địa điểm dự kiến xây dựng toà nhà Quốc hội mới, nhà khảo cổ học Bùi Vinh (Viện khảo cổ học) đã phát hiện một toà lâu đài 3 tầng lầu, 4 mái, dạng hình tháp toạ lạc trên một diện tích xấp xỉ 1000m2 (hai chiều ngang dọc, mỗi chiều dài trên 30m) thuộc hệ thống các cung điện Thăng Long xưa.
Theo đánh giá của ông Bùi Vinh thì đây là công trình đầu tiên, có tầm cỡ và giá trị nhất được tìm thấy từ trước đến nay ở VN.
Việc phát hiện ra lâu đài này được coi là bằng chứng rõ ràng nhất về sự hoành tráng của kinh thành Thăng Long từ thời Lý-Trần.
Mặc dù trước đây các nhà khảo cổ đã đoán định được di chỉ này nằm trong khu vực hoàng thành, thậm chí là cấm thành Thăng Long suốt từ thời Lý, Trần đến Lê nhưng do tiến hành khai quật quá nhanh khiến cho nhiều tầng lớp kiến trúc không thể hiện rõ.
Giai đoạn đầu, tại các hố A1, A1MR, A2, A2MR, A3, A4, A9, A10, A11, A12, A13 trong các lớp đất ở độ sâu trung bình trên dưới – 1, 50m so với “cốt” cao độ của mặt bậc thềm đá Đoan Môn, (được lấy làm “cốt” chuẩn 0. 00 cho cả khu vực khai quật) xuất lộ những ô sỏi trộn lẫn đất sét. Sỏi ở đây khá thống nhất về kích thước, chỉ khoảng bằng hoặc to hơn đầu ngón chân cái, chứng tỏ đã được chọn lọc. Hiện vật thu được trong các lớp đất này được xác định có niên đại thời Lý. Các ô sỏi này thường có hình gần vuông, mỗi cạnh khoảng 1, 30m và ăn sâu xuống các lớp dưới, dày trên dưới 1, 00m. Điều này chứng tỏ đây là các hố đào có chủ đích để đầm - nhồi sỏi cuộn với đất sét. Đáy của các hố sỏi này nằm trong lớp đất chứa các hiện vật được xác định có niên đại Đinh - Tiền Lê.


Rồng trang trí nền Điện Kính Thiên
Các ô sỏi nói trên xuất hiện trong các hố từ A1 đến A18. Tổng cộng có tất cả 40 ô sỏi, xếp thành 04 hàng dọc (hai hàng phía đông có 10 ô trong một hàng, hai hàng phía tây mỗi hàng chỉ có 09 ô). Chúng tôi cho rằng đây chính lá các hố sỏi gia cố dưới các chân tảng đá kê dưới chân các cột. Nói chính xác, theo ngôn ngữ kiến trúc – xây dựng, đó là các móng trụ. Kết quả đo đạc đã giúp khẳng định đây là phế tích của một kiến trúc có bộ khung chịu lực bằng gỗ có 04 hàng chân cột. Khoảng cách giữa các cột Quân với các cột Cái là khoảng 3, 00m. Khoảng cách giữa các cột Cái là khoảng 6, 00m. Từ Bắc xuống Nam đã xác định được 10 vì, nghĩa là ít nhất kiến trúc này có 09 gian. (Chúng tôi chưa thể khẳng định về số gian bởi dấu vết của kiến trúc này còn phát triển kéo dài về phía Bắc, ngoài khu vực khai quật).
Bước gian (khoảng cách giữa hai vì) của kiến trúc này rất lớn, khoảng 5, 80m – 6, 00m. Trên thực tế, bước gian của các di tích kiến trúc bằng gỗ cổ truyền hiện còn đứng vững trên mặt đất thường nhỏ hơn. Tuy nhiên, theo PGS. Trần Lâm Biền hai di tích chùa Thầy (Hà Tây) và đền Lê (Thanh Hoá) cũng có bước gian 6, 00m.
Chưa lý giải được nguyên nhân của sự chênh lệch về số lượng các móng trụ của các hàng móng trụ phía Tây nhưng theo chúng tôi ở đây chắc chắn đã có 04 móng trụ sỏi gia cố cho 01 chân tảng cột Cái và 03 chân tảng cột Quân. Khoảng cách giữa hai hàng móng trụ sỏi cuối cùng chỉ là 4, 1m chứng tỏ đây chính là không gian của chái phía Nam.
Cách tim của các móng trụ gia cố chân tảng cột Quân phía Đông khoảng 4, 5m và chạy dài suốt chiều rộng của “toà nhà nhiều gian” nói trên còn thấy xuất lộ một cống thoát nước được xây-xếp bằng gạch (hoàn toàn không thấy dấu vết của chất kết dính dạng vôi vữa), lòng cống rộng 0, 17m – sâu 0, 20m. Ngoài lớp gạch đặt nằm làm đáy, hai bên thành của rãnh thoát nước này được xếp nghiêng hai lớp gạch. Kích thước trung bình của gạch ở đây là 0, 36m x 0, 20m x 0, 05m). Về phía Đông, sát cạnh cống thoát nước này là một thềm gạch rộng 0, 76m chạy dọc suốt chiều dài đường cống. Gạch lát thềm là gạch vuông 0, 38m x 0, 38m x 0, 07m. Có chỗ còn lát lẫn cả gạch in hoa.
Cách tim của các móng trụ gia cố chân tảng cột Quân phía tây khoảng 2, 5m cũng xuất lộ một cống thoát nước khác. Dấu vết của cống phía tây bị đứt quãng ở góc Tây Nam “toà nhà nhiều gian”, khu vực bị mất 04 móng trụ gia cố chân tảng. Gạch xây-xếp cống thoát nước này là loại chuyên dụng, được sản xuất chỉ để dùng làm cống-rãnh. Các viên dùng lát đáy có mặt cắt hình thang cân (cạnh ngắn 0, 16m - cạnh dài 0, 22m - dầy 0, 08). Những viên dựng hai bên thành có hình bình hành (cạnh ngắn 0, 07m, cạnh dài 2, 44m). Với hình dáng đặc biệt như vậy nên chỉ cần đào rãnh, đặt các viên gạch chuyên dụng này xuống là thành cống (đáy rộng 0, 22m - miệng rộng 0, 32m – sâu 0, 30m).
Cách tim của các hố sỏi gia cố chân tảng cột Quân phía nam khoảng 4, 5m lại cũng xuất lộ một đoạn cống xây xếp bằng gạch chuyên dụng tương tự. Các đoạn cống xây xếp bằng gạch chuyên dụng phía tây và phía nam “toà nhà nhiều gian” nếu còn nguyên vẹn sẽ “bắt” vuông góc chái Tây Nam.


Tượng đầu chim phượng tìm thấy tại hố A2
Theo chúng tôi, các đường cống này chính là các rãnh thoát nước mưa của “toà nhà nhiều gian”. Các cống này đều không có nắp để có thể hứng nước mưa rơi thẳng xuống từ hàng ngói lợp cuối cùng của mái (dân gian thường gọi là giọt gianh). Nghĩa là các rãnh thoát nước mưa này chính là giới hạn của mặt bằng mái. Nói cách khác, số đo giữa các rãnh thoát nước này cho biết về chiều rộng và chiều dài của công trình kiến trúc. Khoảng cách từ tim rãnh thoát nước phía Tây đến tim rãnh thoát nước phía Đông là 17, 65m. Đó chính là kích thước chiều rộng của “toà nhà nhiều gian” này. Chiều dài của kiến trúc này hiện chưa khẳng định được. Nhưng nếu giả định “toà nhà nhiều gian” có 09 gian thì kích thước này sẽ là khoảng 67m.
Theo số đo, phế tích này cho thấy một công trình kiến trúc to lớn theo đúng nghĩa đen. Tuy nhiên chưa thể xác định công năng của kiến trúc này. Chỉ biết rằng “toà nhà nhiều gian” này chạy dài theo trục Bắc – Nam, mở cửa ra cả hai hướng Đông và Tây.
Về phía Tây của toà nhà nhiều gian, cách tim các móng trụ sỏi gia cố hàng chân tảng cột Quân phía tây 4, 90m, đã tìm thấy những móng trụ gia cố chân tảng khác. Vật liệu gia cố có phần đa dạng hơn, ngoài sỏi (tương tự như sỏi ở các hố đã nêu trên) còn có cả ngói vỡ vụn, được nhồi đầm theo chu kỳ 1 lớp sỏi lại 1 lớp ngói vụn. Hình dạng của các hố đào cũng khác, có hố tròn (đường kính từ 1, 10m đến 1, 30m), có hố vuông (1, 20m x 1, 20m). Bố cục của các móng trụ chân tảng này khá đặc biệt: 06 trụ móng tròn quây quanh một số trụ móng ở chính giữa. Khoảng cách trung bình giữa tim của các móng trụ tròn (làm thành một hình lục giác gần đều) là khoảng 1, 30m. Tim móng trụ vuông trùng với tâm của đường tròn ngoại tiếp hình lục giác, cách tim các móng trụ tròn một khoảng 1, 30m
Các cụm móng trụ gia cố chân tảng này trải dài suốt mặt phía tây của toà nhà nhiều gian. Khoảng cách giữa các cụm (đếm được tất cả 11 cụm), không thật đều, xê xích từ 8, 00m đến 12, 00m. Chúng tôi cho rằng một cụm móng trụ gia cố chân tảng như vậy là phế tích của một kiểu lầu lục giác nhỏ, được dựng nhằm phục vụ nhu cầu thưởng ngoạn.
Theo GS. Trần Quốc Vượng, Việt Sử lược có ghi nhận về loại hình kiến trúc này, gọi là các Trà đình. Trong các hố A19, A20, A20MR và A21 cũng xuất lộ nhiều móng trụ sỏi.


Gạch Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo (1507) tìm thấy tại hố B1
Ngay gần chái phía Nam của toà nhà nhiều gian thuộc phạm vi hố A19 có một số móng chân tảng nhưng kết quả đo đạc không xác định được thật rõ ràng về kiến trúc từng tồn tại ở đây. Phía Bắc hố A20 xuất lộ hai hàng móng trụ sỏi gia cố, mỗi hàng 05 móng trụ, khoảng cách giữa tim hai hàng là 3, 40m. Hiện trạng và số đo cho phép giả định đây là một kiến trúc có hướng chạy dài theo trục Đông - Tây (vuông góc với toà nhà nhiều gian). Số đo bước gian đo được của kiến trúc này theo chiều từ Đông sang Tây là: 3, 30m - 5, 45m - 5, 30m. Các khoảng cách khác chưa khẳng định được vì một số móng trụ sỏi đã bị mất và vì kiến trúc này còn tiếp tục kéo dài về phía Đông, ra ngoài khu vực khai quật. Theo chúng tôi, đây có lẽ là phế tích của một toà nhà có 3 gian hai chái.
Ở phía Nam hố A20 đã xuất lộ một cụm phế tích rõ ràng hơn.
Khác với các phế tích vừa mô tả, cụm phế tích này còn cả chân tảng đá đặt nguyên vị trí (in situ) trên hố gia cố. Thực tế này đã khẳng định chính xác về công năng của các hố sỏi. Hố gia cố chân tảng ở đây hình vuông (1, 30m x 1, 30m). Vật liệu gia cố hỗn hợp cả sỏi nhỏ, gạch, đá vụn. Tất cả còn 09 chân tảng, xếp hành 04 hàng. Theo trục Đông - Tây, các chân tảng cách đều nhau một khoảng 5, 75m.
Các chân tảng đều được làm bằng sa thạch (grès) màu xám. Mặt chân tảng chạm cánh sen mang phong cách nghệ thuật Lý. Đường kính trong của vành hoa sen này là 0, 49m. Trên mặt nhiều chân tảng còn rất rõ dấu vết cho biết cột gỗ dựng trên đó có đường kính 0, 43m. Tuy nhiên ở vị trí sẽ đặt xà ngưỡng, mặt tảng để trơn, không chạm cánh sen. Nối dài hai bên (đông, tây) một số chân tảng cũng còn giữ nguyên một số viên gạch (0, 38m x 0, 15m x 0, 11m) của hàng gạch đỡ dưới xà ngưỡng. Với dấu vết của các xà ngưỡng này, chúng tôi cho rằng đây là hai kiến trúc dạng hành lang, chạy dài theo Đông - Tây. Đặc biệt, cụm phế tích này còn giữ nguyên vẹn một số đoạn thềm hiên lát gạch ở phía ngoài xà ngưỡng, rộng trên dưới 1, 00m tính từ tim chân tảng. Thềm gạch này được xây xếp bởi 8 hàng gạch (0, 39m x 0, 20m x 0, 05m) cao hơn mặt sân 0, 36m. Sân gạch chạy giữa hai hành lang này được lát gạch vuông (0, 38m x 0, 38m x 0, 06m).
Theo các nhận định ban đầu cho rằng các phế tích kiến trúc ở phía Bắc khu A là của một tổ hợp kiến trúc có liên quan mật thiết với nhau, bao gồm: một tòa nhà nhiều gian có chiều rộng 17, 65m, chạy dài ít nhất 09 gian (khoảng 67m) và một dãy các lầu lục giác. Điều đáng quan tâm là sự liên hệ, tiếp nối giữa các kiến trúc này. Hiện trường còn rất rõ một số mảng nền lát gạch vuông (0, 38m x 0, 38m x 0, 08m), nối liền từ mép rãnh thoát nước phía Tây tòa nhà nhiều gian với các lầu lục giác.
Chiều rộng của nền gạch này đo được 2, 60m. Nhiều viên gạch vuông của nền gạch nói trên đã được cắt chéo để lát sát vào hàng gạch chữ nhật (0, 39m x 0, 18m x 0, 06m) xây nghiêng bao quanh mặt nền của lầu lục giác.


Gạch làm bằng đất nung trang trí hoa cúc
Căn cứ vào dấu vết của nền lát gạch vuông này, chúng tôi cho rằng tòa nhà nhiều gian và các lầu lục giác có cùng một niên đại khởi dựng.
Về niên đại: Để định niên đại cho các dấu tích kiến trúc đã xác định ở khu A, chúng tôi dùng phương án đối chiếu và so sánh tổng hợp, kết hợp với việc phân tích địa tầng.
Trước hết chúng tôi tập trung vào các trụ móng sỏi có chuẩn niên đại tương đối. Như đã trình bày, ở khu A20 còn có 8 trụ móng sỏi còn nguyên chân tảng đá xếp tại chỗ. Các chân tảng đều bằng đá cát, các cánh sen thon thả, trau chuốt, đẹp tương tự như chân tảng đá hoa sen thời Lý ở tháp Tường Long (Hải Phòng) năm 1057, tháp Chương Sơn (Nam Định)... Chiều rộng của nền gạch này đo được 2, 60m. Nhiều viên gạch vuông của nền gạch nói trên đã được cắt chéo để lát sát vào hàng gạch chữ nhật (0, 39m x 0, 18m x 0, 06m) xây nghiêng bao quanh mặt nền của lầu lục giác.
Căn cứ vào dấu vết của nền lát gạch vuông này, chúng tôi cho rằng tòa nhà nhiều gian và các lầu lục giác có cùng một niên đại khởi dựng.
Về niên đại: Để định niên đại cho các dấu tích kiến trúc đã xác định ở khu A, chúng tôi dùng phương án đối chiếu và so sánh tổng hợp, kết hợp với việc phân tích địa tầng.
Trước hết chúng tôi tập trung vào các trụ móng sỏi có chuẩn niên đại tương đối. Như đã trình bày, ở khu A20 còn có 8 trụ móng sỏi còn nguyên chân tảng đá xếp tại chỗ. Các chân tảng đều bằng đá cát, các cánh sen thon thả, trau chuốt, đẹp tương tự như chân tảng đá hoa sen thời Lý ở tháp Tường Long (Hải Phòng) năm 1057, tháp Chương Sơn (Nam Định)... Chiều rộng của nền gạch này đo được 2, 60m. Nhiều viên gạch vuông của nền gạch nói trên đã được cắt chéo để lát sát vào hàng gạch chữ nhật (0, 39m x 0, 18m x 0, 06m) xây nghiêng bao quanh mặt nền của lầu lục giác.
Căn cứ vào dấu vết của nền lát gạch vuông này, chúng tôi cho rằng tòa nhà nhiều gian và các lầu lục giác có cùng một niên đại khởi dựng.
Về niên đại: Để định niên đại cho các dấu tích kiến trúc đã xác định ở khu A, chúng tôi dùng phương án đối chiếu và so sánh tổng hợp, kết hợp với việc phân tích địa tầng.
Trước hết chúng tôi tập trung vào các trụ móng sỏi có chuẩn niên đại tương đối. Như đã trình bày, ở khu A20 còn có 8 trụ móng sỏi còn nguyên chân tảng đá xếp tại chỗ. Các chân tảng đều bằng đá cát, các cánh sen thon thả, trau chuốt, đẹp tương tự như chân tảng đá hoa sen thời Lý ở tháp Tường Long (Hải Phòng) năm 1057, tháp Chương Sơn (Nam Định)... Đồng thời tại khu vực hố A20 có khá nhiều các di vật lá đề và gốm sứ thời Lý. Các loại gạch có thềm hiên nhà đều còn nguyên vẹn và dáng hình, sắc màu đều giống hệt như các viên gạch xây các tháp Lý vừa dẫn. Từ các dẫn liệu trên đây chúng tôi tin rằng đây là dấu tích kiến trúc của thời Lý. Niên đại này được củng cố khi so sánh mặt bằng của hai kiến trúc này là tương đương với địa tầng chuẩn Lý - Trần ở Đoan Môn đều ở độ sâu khoảng 2m. Khi đó có các móng trụ có niên đại tương đối ta có thể so sánh tìm hiểu niên đại của các móng trụ khác. Ta sẽ thấy, móng trụ sỏi ở kiến trúc nhiều gian, ở lầu lục giác giống hệt về kỹ thuật, vật liệu, kích thước với các trụ móng sỏi Lý ở khu A20.
Về địa tầng các trụ móng đó cùng độ sâu 1, 80m - 2, 20m với các kiến trúc ở A20, tức là đều nằm trong khoảng niên đại khoảng thời Lý.


Gạch Đại Việt Quốc quân thành chuyên thế kỷ 10 khai quật được tại hố A1 18 Hoàng Diệu


Một số sưu tập đồ gốm, sứ trong Thành cổ Hà Nội
Hơn nữa xét về mặt kỹ thuật xây dựng, các móng trụ ở đây cũng đều thuộc kỹ thuật của thời Lý và thời Trần. Trong thời Lý, kỹ thuật gia cố sỏi đặc biệt thấy rõ ở chùa Lạng (Hưng Yên), tháp Chương Sơn (Nam Định), tháp Phổ Minh (Nam Định).
Các trụ móng sỏi ở thời Lý thường được gia cố rất chặt chẽ. Điều này khác với các trụ móng sỏi thời muộn hơn (có thể là thời Lê), có gia cố sỏi nhưng sơ sài hơn rất nhiều và ở độ sâu cao hơn. Nói cách khác các trụ móng sỏi Lê nằm ở mặt bằng cao hơn mặt bằng Lý - Trần.
Hơn nữa, như đã nói trên, phủ trên mặt bằng của khu vực của các trụ móng thời Lý là một lớp di vật có niên đại Lý nên có thế tin rằng hầu hết các trụ móng ở đây đều thuộc thời Lý.
Điều này còn được khẳng định thêm khi phát hiện một hồ nước cổ hình chữ nhật phía Nam khu kiến trúc nhiều gian bị lấp đầy vật liệu Lý, Trần. Điều này chứng tỏ hồ nước này đã bị lấp trong thời Trần. Hồ nước này đã phá vào móng kiến trúc lầu lục giác và một phần móng trụ của 'kiến trúc nhiều gian. Chúng tôi cho rằng hồ này được đào vào đầu thời Trần và bỏ đi vào khoảng cuối thời Trần. Do đó ta cũng thấy các trụ móng sỏi đã xuất lộ ở cùng mặt bằng đều thuộc thời Lý.


Thạp gốm hoa nâu thế kỷ 13-14 trong số các hiện vật gốm, sứ của Thành cổ Hà Nội
Kiến trúc cổ truyền Việt là các công trình có hệ chịu lực bằng khung gỗ, với cấu kiện cơ bản là hệ thống cột. Vì vậy, người Việt chỉ chú trọng gia cố nền mà không cần đến móng. Sức nặng của công trình được phân tán qua hệ cột nên chân các cột đá được gia cố bằng các chân tảng đá có kích thước lớn gấp nhiều lần đường kính cột.
Hiện trạng khảo cổ học (tầng văn hoá, hiện vật) và kết quả khảo sát địa chất khu vực này cho phép khẳng định có một dòng chảy cổ (theo hướng Bắc - Nam) ở phía Tây các phế tích nói trên. Nền đất tự nhiên chịu tải kém nên các công trình kiến trúc ở đây đều có hệ thống hố gia cố chân tảng. Đây là một thành tựu, một tiến bộ kỹ thuật của người Việt trong xây dựng. Với khảo cổ học kiến trúc (hay khảo cổ học đô thị), các phế tích nói trên còn cung cấp những hiểu biết mới, có tính chất lý thuyết về việc gia cố chân tảng, về cách thức xác định kích thước - quy mô của một kiến trúc qua các dấu vết của phế tích. Kỹ thuật này đã được thấy ở cố đô Hoa Lư thời Đinh - Lê. Ở kỹ thuật xây trụ móng được thực hiện bằng các móng bè bằng gỗ lim cao 5 lớp kết hợp với lớp móng trụ đá ở bên trên. Đến thời Lý và thời Trần, kỹ thuật này bây giờ xử lý hoàn toàn bằng sỏi và gạch vụn, sành vụn. Móng trụ bằng sỏi thời Lý và thời Trần có quy mô và chắc chắn nhất trong lịch sử kiến trúc Việt Nam.
Các phế tích kiến trúc ở khu A còn cần được nghiên cứu kỹ hơn. Kiến giải của chúng tôi về một số phế tích chỉ là những nhận định ban đầu. Tuy chưa thể khẳng định về quy mô và công năng của tất cả các công trình nhưng rõ ràng các phế tích này cho thấy một quần thể kiến trúc toà ngang dãy dọc khá phong phú. Dung mạo của một bộ phận Hoàng Thành Thăng Long xưa đã hiển hiện qua dấu vết vật chất chứ không chỉ là hình ảnh của sách vở, chữ nghĩa.
Cùng những phát hiện quan trọng về các dấu tích kiến trúc, một số lượng lớn đồ gốm sứ là những vật dụng dùng hàng ngày trong Hoàng cung qua nhiều thời kỳ cũng được tìm thấy. Những khám phá này đã thực sự mở ra một cánh cửa mới cho việc nghiên cứu về gốm Thăng Long và gốm dùng trong Hoàng cung Thăng Long qua các triều đại.
Hậu Lâu


Hậu Lâu
Lầu Tĩnh Bắc (Tĩnh Bắc lâu) là một toà lầu xây phía sau cụm kiến trúc điện Kính Thiên là hành cung của thành cổ Hà Nội. Tuy ở sau hành cung nhưng lại là phía bắc, xây với ý đồ phong thuỷ giữ yên bình phía bắc hành cung, nên mới có tên là Tĩnh Bắc lâu và còn có tên là Hậu lâu (lầu phía sau), hoặc là lầu Công chúa do cho rằng đây là nơi nghỉ ngơi của các cung nữ trong đoàn hộ tống vua Nguyễn ra ngự giá Bắc thành.
Cửa Bắc


Cửa Bắc nhìn từ bên ngoài


Cửa Bắc bên trong
Tên Hán Việt là Bắc Môn là một trong năm cổng của thành Hà Nội thời Nguyễn. Khi Pháp phá thành Hà Nội chúng giữ lại cửa Bắc vì nơi đây còn hai vết đại bác do pháo thuyền Pháp bắn từ sông Hồng năm
1882 khi Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai. Ngày nay trên cổng thành là nơi thờ hai vị tổng đốc Hà Nội là Nguyễn Tri PhươngHoàng Diệu.
Xem thêm
Khu phố cổ Hà Nội




Phố Hàng Phèn nằm trong khu phố cổ, nay thuộc phườmg Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm, Thủ đô Hà Nội, nước Việt Nam ; ( nhà tôi ở số nhà 23, phố Hàng Phèn )
Phố Hàng Phèn hình thành cùng lúc với các phố Thuốc Bắc, cửa Đông, Bát sứ, Bát Đàn, Hàng Bồ, Hàng Vải....; Phố Hàng Phèn thời trước có tên 1 người Pháp (?); Hoà bình lập lại được đạt tên là Phố Hàng Phèn; Phố chỉ có 29 số nhà bên số lẻ, 24 số nhà bên số chẵn ! Có một đoạn mang tên phố Hàng Phèn ( Khoảng 20 mét - Từ ngã tư với Bát sứ dến Hàng Gà ) là không có số nhà ! Các nhà bên số lẻ ở đoạn này, lấy theo số cuả phố Bát sứ và phố Hàng Gà, Bên số chẵn cũng vậy !
Khi hoà bình lập lại ( 1954 ) , phố Hàng Phèn có khoảng 5-7 hộ( Nhà tôi cũng bán) chuyên môn bán Phèn Chua, hoa hồi, lưu Huỳnh, hàng khô....; Vì đó nên có tên phố là Hàng Phèn;
Năm 1946, Pháp quay lại chiếm Hà Nội, Phố Hàng Phèn bị đạn Pháp bắn, một số nhà bị sập tầng 2 ( từ số nhà 23 đến 29); có nhà tôi, năm 1950 , ông Bà tôi xây lại, chỉ xây được 1 tầng, đổ mái BTCT, tầng 2 không có tiền xây tiếp, để trống; Hoà bình, Nhà nước cũng không có tiền đền bù cho những gia đình bị thiệt hại do chiến tranh !
Phố Hàng Phèn có Phở Bắc Hải nổi tiếng HN một thời ( thời 1980-1990 ) Người dân xếp hàng dài để chờ đến lượt mua phở Bắc Hải ( vừa ngon, vừa rẻ !) ( Kỳ sau xin kể tiếp )

Dành cho bạn đọc quê Tuyên Quang và các nhà Hảo tâm



Cầu Nông Tiến - tx Tuyên Quang
Dành cho bạn đọc quê Tuyên Quang và các nhà Hảo tâm

Chiêm Hoá, Tuyên Quang phục dựng đền Bách Thần



Ông Nguyễn Hải Sơn, Chủ tịch UBND thị trấn Vĩnh Lộc cho biết, thể theo nguyện vọng của đồng bào các dân tộc huyện Chiêm Hoá, UBND tỉnh đã cho chủ trương và đồng ý để UBND thị trấn Vĩnh Lộc làm chủ đầu tư công trình, huy động đóng góp tự nguyện của nhân dân và nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư xây dựng công trình.
Để xây dựng đền Bách Thần đạt các yêu cầu đề ra, đảng uỷ, chính quyền, các ngành, đoàn thể của thị trấn đã có nhiều buổi họp chuyên đề. Cán bộ thị trấn cùng với lãnh đạo huyện, các nhà chuyên môn nhiều lần đi khảo sát thực địa chọn phương án quy hoạch và địa điểm xây đền phù hợp nhất. Các cụ cao tuổi được Hội Người cao tuổi, UBND thị trấn mời tham gia đóng góp ý kiến nhằm xây dựng đền đúng với lịch sử và tiêu chí. Sau khi được UBND tỉnh cho chủ trương xây dựng, UBND thị trấn đã nhanh chóng thành lập ban quản lý công trình, ban giám sát nhân dân, ban vận động huy động vốn. Hiện nay, Ban quản lý công trình đã hợp đồng với KTS. Phạm Xuân Thành – Giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn thiết kế và xây dựng Anh Minh (thị xã Tuyên Quang) tiến hành thiết kế các phương án xây dựng đền. Khi quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết, mẫu thiết kế đền được hoàn chỉnh, UBND thị trấn sẽ trình lãnh đạo huyện phê duyệt để ban quản lý công trình nhanh chóng khởi công xây dựng đền Bách Thần.
Theo ông Bùi Thái Dư, Phó Chủ tịch Hội Người cao tuổi thị trấn Vĩnh Lộc, trước năm 1945 tại khu vực chợ thị trấn Vĩnh Lộc có ngôi đền Bách Thần ba gian, xây bằng gạch chỉ, cạnh một cây đa to. Hướng của đền thờ vọng sang núi Bách Thần, tả ngạn sông Gâm, phía đông thị trấn. Hằng năm, chính lễ của đền cùng ngày Hội lồng tông mồng 8 tháng Giêng âm lịch, quan chức các xã và nhân dân trong vùng mang lễ vật đến đền để tế thần. Người Chiêm Hoá coi núi Bách Thần rất linh thiêng nên đã lập đền thờ, thờ cả trăm vị thần, như các thần tự nhiên, thờ anh hùng dân tộc, người có công với địa phương... Tục truyền, đền Bách Thần còn được gọi là Phúc Thần, tức vị thần ban phúc cho nhân dân. Nhờ đó, đền có vai trò rất lớn trong đời sống văn hoá tinh thần của người dân Chiêm Hoá. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đền bị tàn phá, chỉ còn cây đa. Năm 2002, cây đa bị chặt để làm đường đi nên đến nay không còn di vật gì của đền.
Việc Hội Người cao tuổi thị trấn Vĩnh Lộc đề nghị Đảng uỷ, UBND thị trấn Vĩnh Lộc cho khôi phục lại ngôi đền Bách Thần đã được nhân dân trong huyện đồng tình ủng hộ cả tinh thần và vật chất. Dự kiến ngôi đền sẽ được xây dựng lại trên sườn núi Bách Thần, nhìn theo hướng Tây Bắc.Với hướng và địa thế đẹp, trong tương lai, nơi đây sẽ thu hút du khách thập phương trong tua du lịch: thị xã Tuyên Quang - Kim Bình - đền Bách Thần. Nhìn từ ngôi đền hay đỉnh núi Bách Thần, du khách có thể chiêm ngưỡng được vẻ đẹp của thị trấn Vĩnh Lộc bên dòng Gâm thơ mộng.
Đến hôm nay, ngôi đền đã và đang được xây dựng, sau khi Quy hoạch tổng thể chi tiết Đền Bách Thần, địa điểm tại tổ nhân dân 11/9, thị trẫn Vĩnh Lộc, được ông Ma Phúc Đào, chủ tịch UBND huyện ký quyết định phê duyệt bản vẽ quy hoạch do KTS. Phạm Xuân Thành – Giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn thiết kế và xây dựng Anh Minh (thị xã Tuyên Quang) tiến hành thiết kế ; Đây là Khu Quy hoạch có tính chất du lịch tâm linh và sinh thái. Trong quy hoạch, ngoài đền Bách Thần đang xây dựng, dự kiến còn xây đền Thờ Phật và đền thờ Mẫu ( trong Huyện chưa có đền thờ Phật và đền thờ Mẫu) để tiện cho người dân trong huyện, không phải đi quá xa để hành lễ. các công trình phụ trợ khác sẽ được xây dựng như: Lư Hương, nhà tháp chuông, bể nước tụ thuỷ ( Tụ phúc lộc), nhà bát giác , Tượng Phật, Bia đá ghi địa danh, cổng Tam quan, đường ôtô đi, bãi đỗ xe ôtô, đường đi bộ bậc lên xuống, ban đầu kinh phí dự toán gần 10 tỷ đồng; Ngoài ra, phần quy hoạch sinh thái có các khu vực trồng các loại cây ăn quả ngon, quý xung quanh đền, Khu vực trồng các loại cây thuốc quý, dễ trồng, khu vực trồng các loại cây phong lan, hàng trăm loài hoa các loại, mỗi loại hoa, có thể có nhiều chục mầu sắc khác nhau ! cây gỗ quý các loại....... ( Chiêm Hoá và Tuyên Quang riêng có ); Tổng khu quy hoạch được 21 ha,
Nguồn vốn chủ yếu do sự đóng góp của các nhà hảo tâm, đồng chí, đồng bào có Công đức cho Đền Bách Thần xin gửi vào TK: 421 101 1318 của UBND thị trấn Vĩnh Lộc, tại NH NN và PTNT huyện Chiêm Hoá; ĐT : 098844960; 0913696509;
Tuyên Quang 15/10/2009 ; Lê Minh Hoà-Phạm Xuân Thành