Thứ Bảy, 31 tháng 10, 2009

Sống chết mặc bay



Tác giả Phạm Duy Tốn
Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng… thuộc phủ… xem chừng núng thế lắm, không khéo thì vỡ mất.
Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức gìn giữ, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy, ngập quá khuỷu chân, người nào người ấy, lướt thướt như chuột. Tình cảnh này trông thật là thảm.
Tuy đánh trống liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác, gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai cũng mệt lử cả rồi. ấy vậy mà trên trời thời mưa vẫn tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất!…
Ấy, lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu đuối mà đối với sức mưa to lớn, để bảo thủ lấy tánh mạng gia tài; thế thời quan cha mẹ ở đâu?
Thưa rằng: Ðang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Ðình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì.
Trong đình, đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Trên sập mới kê ở gian giữa, có một mình quan phụ mẫu, uy nghi chễm chện ngồi. Xung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu quan, thì có thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội nhất, thầy thông nhì, sau hết, giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh tổng sở tại, cùng ngồi chầu bài.
Ngoài kia tuy mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít; nhưng trong này xem chừng tĩnh mịch, nghiêm trang lắm, trừ quan phụ mẫu ra, mọi người không ai dám to tiếng. So với cảnh trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đoàn sâu lũ kiến ở trên đê, thời ở trong đình rất là nhàn nhã, đường bệ, nguy nga: nào quan ngồi trên, nào nha ngồi dưới; người nhà, lính lệ như khoanh tay sắp hàng, nghi vệ tôn nghiêm, như thần như thánh. Thỉnh thoảng nghe tiếng quan phụ mẫu gọi: “Ðiếu, mày!” tiếng tên lính thưa: “Dạ”; tiếng thầy Ðề hỏi: “Bẩm, bốc?” tiếng quan lớn truyền “Ừ”. Kẻ này: “Bát sách… Ăn”, người kia: “Thất văn… Phỗng”, lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, khi cười, khi nói, vui vẻ dịu dàng. Thật là tôn kính, xứng đáng với một vì phúc tinh…
Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọ, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang dậy trời đất… Mọi người giật nảy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Vì ngài sắp ù to.
Có người khẽ nói:
- Bẩm, đê có khi vỡ!
Ngài cau mặt gắt rằng:
- Mặc kệ.
Rồi ngài xếp bài lại, quay gối dựa sang bên tay phải, nghiêng mình, bảo thầy đề lại:
- Có ăn không thì bốc chứ!
Thầy đề vội vàng:
- Dạ, bẩm bốc.
Vừa lúc đó, thì tiếng người kêu rầm rĩ, càng nghe, càng lớn. Lại có tiếng ào ào như thác chảy xiết; rồi lại có tiếng gà, tiếng chó, trâu, bò kêu vang tứ phía.
Bấy giờ ai nấy ở trong đình, đều nôn nao sợ hãi. Thốt nhiên một người nhà quê, mình mẩy lấm láp, tất tả chạy xông vào, thở không ra lời:
- Bẩm… quan lớn… Ðê vỡ rồi!
Quan lớn đỏ mặt, tía tai, quay ra, quát rằng:
- Ðê vỡ rồi!… Ðê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?… Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?
- Dạ, bẩm…
- Ðuổi cổ nó ra!
Ngài quay vào, hỏi thầy đề:
- Thầy bốc quân gì thế?
- Dạ, bẩm con chưa bốc.
- Thì bốc đi chứ!
Thầy đề, tay run cầm cập, thò vào đĩa nọc, rút một con bài lật ngửa, xướng rằng:
- Chi chi!
Quan lớn vỗ tay xuống sập kêu to:
- Ðây rồi!… Thế chứ lại!
Rồi ngài vội vàng xoè bài, miệng vừa cười, vừa nói:
- Ù! Thông tôm, chi chi nẩy!… Ðiếu mày!…
*
* *
Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh sầu thảm, kể sao cho xiết!
Tạp chí Nam Phong,
số 18, tháng 12 – 1918

5 nhận xét:

  1. Nhạc sĩ Phạm Duy, con trai nhà văn Phạm Duy Tốn viết trong Hồi ký, có đoạn: lớn lên, đi giang hồ rồi đi kháng chiến, mẹ chết đi là thôi, không bao giờ tôi được biết tường tận về bố tôi cả.
    Nhưng có một hôm, trong mớ giấy tờ hộ tịch, tìm thấy tờ khai tử của bố tôi, tôi bỗng thương ông vô cùng. Tờ trích lục khai tử đó ghi:

    Ngày chết : 25 tháng 2 1924, 6 giờ 20
    - Nơi chết : 54 Rue Felloneau (Hàng Dầu), Hà Nội
    - Tên họ người chết : Phạm Duy Tốn
    - Tuổi và Nghề Nghiệp : 43 tuổi, ký giả
    - Là chồng của : Nguyễn Thị Hoà
    - Ngày sinh của người chết : 1881
    - Nơi sinh của người chết : 54 Rue Felloneau, Hà Nội
    - Tên cha của người chết : Phạm Duy Ðạt (chết)
    - Tên mẹ của người chết : Nguyễn Thị Huệ...

    Trả lờiXóa
  2. Nặc danh05:28 5/11/09

    Tháng 12 năm 1918, tạp chí Nam Phong đã cho đăng truyện ngắn bất hủ này ! Đến nay, đã trải qua 91 năm ! chỉ còn 9 năm nữa, chúng ta kỷ niệm 100 năm tác phẩm " Sống chết mặc bay " Ra đời !?
    Các bạn ạ ! Thật là vô cùng đau lòng khi ngày nay, câu chuyện " sống chết mặc bay " này, với nội dung tương tự, vẫn thường xuyên xảy ra, diễn ra ở khắp nơi trên Thế giới đầy hận thù và tranh giành miếng cơm , manh áo này ! Đến bao giờ mới hết cảnh này ?

    Trả lờiXóa
  3. Mong sao, đến ngày kỷ niệm 100 truyện ngắn này ra đời, và sau đó trở đi, sẽ không còn cảnh " Sống chết mặc bay" như thế này nữa để cho các "quan" không xứng đáng làm quan, không bao giờ được làm quan !

    Trả lờiXóa
  4. Nặc danh19:42 2/5/10

    toi thay tac gia PHạm Duy Tốn là một ngưoi có giong văn rất hay truyền nhiêu cảm xúc cho người nghe, người đọc tuy tôi chỉ là một học sinh cấp II nhưng tôi cảm thấy rát xúc độc khi đọc những baì văn buòn tức giận khi đọc những bài văn thể hiện rõ sự hành hạ của các giai cấp thông trị.

    Trả lờiXóa
  5. Mong sao, đến ngày kỷ niệm 100 năm (vào năm 2018) truyện ngắn này ra đời, và sau đó trở đi, sẽ không còn cảnh " Sống chết mặc bay" như thế này nữa để cho các "quan" không xứng đáng làm quan, không bao giờ được làm quan !
    Bạn là HS cấp II, bạn còn rất trẻ và đẹp ! ( đẹp thường đi đôi với trẻ! ); Mong bạn tiếp tục đãi cát tìm vàng trong nền văn học nước nhà và đặt biệt là nền văn học thế giới, nhất là những tác giả được giải NÔBEN về văn học ! những kẻ ác chính là những kẻ thất học ! Những người có học thường giàu lòng nhân ái !

    Trả lờiXóa